Ngôn ngữ Ngữ chi Bahnar

Sidwell (2009) tạm chia ngữ chi Bahnar ra thành bốn nhánh con, trong đó tiếng Co (Kor) nằm riêng trong nhánh Bahnar Đông.[3][4]

Những ngôn ngữ Bahnar chưa phân loại ở Campuchia là Mel, Khaonh, Ra’ong, và Thmon.[5]

Ngữ chi Bahnar

Bahnar Bắc

Nhóm ngôn ngữ Bahnar Bắc nằm ở phía bắc của nhóm ngôn ngữ Chăm-Aceh.[6] Tiếng Xơ Đăng và Hrê có đông người nói nhất (mỗi tiếng có chừng 100.000 người).

Bắc

Giẻ

Halang

Kayong

Rơ MămKaco’

Takua

Monom (Bonam, Monam)

Todrah (Didrah, Modrah)

Xơ Đăng

Rengao

Hrê

Hai ngôn ngữ Bahnar Bắc có quá ít thông tin để phân loại chính xác hơn là tiếng DuanKatua.

Bahnar Tây

Nhóm Bahnar Tây nằm ở phía tây nhóm Bahnar Bắc,[7] Khác các nhánh ngôn ngữ Bahnar khác, nhánh Bahnar Tây chịu ảnh hưởng của tiếng Khmer thay vì của các ngôn ngữ Chăm-Aceh, và cũng chịu ảnh hưởng của ngữ chi Cơ Tu (Sidwell 2003).

Sidwell (2003) đề xuất cách phân loại nhánh Bahnar Tây như sau, trong đó tiếng Lavi tách ra trước nhất. Tiếng Jru'/Laven, Su', và Juk tạo ra nhóm chung tách ra thứ hai, rồi đến phần còn lại. Tiếng Jru'tiếng Brâu mỗi tiếng đều có vài chục ngàn người nói, còn các ngôn ngữ khác chỉ đến vài ngàn.

Bahnar Trung

Về địa lý, nhóm ngôn ngữ Bahnar Trung bị tách đôi, với người nói ngôn ngữ Chăm-Aceh ở giữa,[7][8] Tiếng Bahnar, M'Nông, và Xrê (Kơ Ho) mỗi ngôn ngữ có hơn 100.000 người nói.

Tiếng Kassang là một ngôn ngữ Bahnar (Sidwell 2003), dù Ethnologue xếp nó vào nhóm Cơ Tu.

Sidwell (2002, 2003) đề xuất cách phân loại sau.[9] Chú ý rằng Sidwell (2009) phân loại tiếng Co vào một nhánh riêng, gọi là Bahnar Đông.